Nói tới đau thương mất mát, thảm họa diệt chủng, bi ai cùng cực, chia ly sinh tử, người ta nghĩ ngay tới chiến tranh. Loài người sinh ra được ban tặng cho tình cảm tâm lý, tính tốt cũng như thói xấu từ đó mà hình thành. Có yêu thương thì cũng có ganh đua, tị nạnh; có chở che thì cũng có bóc lột, đàn áp. Nhân loại tranh giành nhau vươn lên cái vị trí dẫn đầu về lòng tham trong giới sinh vật, và chiến tranh phôi thai nảy nở.
Câu chuyện phim mở ra bằng một câu nói khiến người xem vừa hoang mang lo sợ, vừa tò mò hồi hộp đặt dấu chấm hỏi cho số phận của một đứa trẻ. “Ngày 21 tháng 9 năm 1945. Đó là đêm mà tôi chết” – chỉ 19 ngày sau khi Đại chiến thế giới lần Hai kết thúc. Chiến tranh gieo rắc trên đất nước lốm đốm những nấm mồ, trẻ có già có, trai có gái có, vùi dập sự sống đang xanh tươi mơn mởn; và sau đó kéo những người còn lại đến sát bờ vực thẳm. Đói. Bệnh tật. Tù đày. Bao trùm một bầu không khi đầy tro bụi, khói thuốc súng pháo. Tang tóc len lỏi trong từng phân tử không khí.
Và đứa bé, hay là linh hồn của cậu, hiện lên trong ánh đỏ nhức nhối để làm một nhiệm vụ không lấy gì vui sướng: kể lại quá khứ đau thương của chính mình, mở tung những khung cửa nhìn về một không gian chiến tranh chính nơi quê hương của đất nước đi tham chiến. Cùng với đứa em gái yêu thương, hai linh hồn ngược dòng thời gian trên chuyến tàu điện, tìm về với gốc gác ban đầu, từ màn đêm u tối.
Câu chuyện trong phim Mộ Đom Đóm sáng lại trong khung cảnh chạy giặc của một gia đình. Cậu con trai hí húi cất đồ dự trữ, đảm luôn nhiệm vụ trông nom cô em để mẹ chạy xuống hầm trước. Cậu bé Seita nhanh chóng thể hiện bản lĩnh của người con trai trụ cột trong gia đình, thể hiện phong thái nhanh nhẹn trong tình huống khẩn cấp. Từng hành động lượm búp bê cho em, gỡ tấm hình cha trong khung ra cất lại đã bộc lộ sự cẩn thận chu đáo và vô cùng điềm tĩnh đối phó với mọi sự biến đang diễn ra trước mắt.
Câu chuyện bắt đầu cuốn theo những nhịp chạy khi chậm rãi, khi hối hả của hai đứa trẻ: thằng anh cõng em gái trên lưng. Những cánh đồng đen muội than, nhà sập, xác người; những khu tạm cư tập trung chen chúc người; bệnh xá đầy rẫy bệnh nhân. Và chính nơi đây, hai đứa trẻ nhận được tin về người mẹ. Nhưng chỉ Seita biết được tình trạng của mẹ, rồi lầm lũi nhận hộp tro từ tay bác sĩ. Hình ảnh cậu bé cúi người ôm trọn chiếc hộp tro cốt ấy đè nặng trong lòng độc giả. Người ta có cảm tưởng như cậu bé chưa đủ tuổi trưởng thành ấy đang oằn mình gánh lấy nghĩa vụ vô cùng gian nan mà người lớn vô tình rũ bỏ.
Mẹ mất, ba đi lính hải quân xa, cậu giành lấy hết công việc của song thân phụ mẫu để lo cho cái gia đình nhỏ của mình. Về sống với bà dì họ hàng, tưởng chừng đã có nơi yên thân trú ngụ. Nhưng không, với lòng tự trọng cao, cậu quyết ra đi tự mình chạy gạo chạy thịt, gánh thêm một “tảng trách nhiệm” to hơn. Lưng cậu vẫn địu em, tay xách nách mang, trên vai là tay em gái cầm chiếc dù rách tả tơi mới đổi được của một ông nông dân già tốt bụng – ngỡ như đốm lửa nhỏ trong mưa, leo lét nhưng vẫn cháy.
Không chấp nhận người dì thiếu tôn trọng, hai đứa trẻ dọn ra một hầm bỏ hoang rìa sông, tự tay dựng nên cái gọi là gia đình, sự sống. Chiến tranh cướp đi bố mẹ, rồi cũng cắp luôn sức khỏe, thức ăn và hơn cả là những ngày ấu thơ đáng lẽ ra phải được tươi đẹp, tự do, trong sáng, hồn nhiên của hai đứa nhỏ. Có lẽ những giây phút bình yên ấy chỉ có khoảnh trời đêm dày đặc ánh sáng nhấp nháy của bầy đom đóm, những con đom đóm ngập tràn màu tuổi thơ. Thế nhưng, khi ánh sáng về, khi ngày mới đến, những con đom đóm tàn lụi ánh sáng huyền diệu, ngã quỵ trước dòng thời gian nghiệt ngã, còn những đứa trẻ thì tiếp tục vòng đời quẩn quanh trong vô vọng, trong những toan tính cuộc đời hằn lên đầu óc thơ trẻ.
Rồi một lần nữa, thần chết mang tên chiến tranh rước luôn cô em nhỏ bé Setsuko, nguồn động viên tinh thần, nguồn sống cho cả hai. Chôn chặt niềm đau vào mình, như đã từng nén từng dòng nước mắt như lũ trào bờ đê, Seita đặt em vào một chiếc giỏ nhỏ, thiêu và bỏ tro vào hộp đựng kẹo hoa quả. Cậu phải giữa lại chiếc hộp ấy, bởi nó là thứ gắn liền với em cậu nhất, trong từng giây phút còn sống trên hồng trần này.
Những viên kẹo đậm mùi nho, nhãn, mận, đào, bạc hà là cứu cánh cho cuộc đời của một cô bé chập chững bước ra đời lúc bầu má còn bầu bĩnh, lúc nụ cười vẫn còn chưa bị thời gian dán lên những vết nhăn suy tư. Setsuko là một điển hình cho niềm tin của con người. Cô bé luôn mang theo nụ cười tươi rói, có sức lay động mãnh liệt, luôn luôn lạc quan yêu đời. Đôi lúc cô bé buồn rầu giận dỗi, những lúc nằm mơ khóc thét gọi tên mẹ, nhưng rồi khi ánh sáng ban ngày đong đầy đôi mắt trẻ, Setsuko lại quay trở về với hình mẫu của một cô bé dễ thương, yêu đời, vui sống, tự do.
Dường như ý đồ của đạo diễn, tác giả kịch bản phim Mộ Đom Đóm tạo ra nhân vật này nhằm gieo vào con người nhận thức về sức mạnh của niềm tin trong mọi hoàn cảnh. Nó đem lại sức đẩy mạnh mẽ phóng con người tiến về phía trước, mạnh mẽ hơn, kiên cường hơn. Và khi niềm tin chết đi, như cái chết dặt dìu, vật vờ của Setsuko, con người ta cũng mất đi niềm tin cuộc sống, đánh rơi bản năng sinh tồn.
Câu chuyện kết thúc, bởi từ đầu nó đã kết thúc trong câu nói của Seita. Cái chết của cả gia đình là một minh chứng đau đớn nhưng chân thực nhất về chiến tranh và dư âm dai dẳng mà nó mang lại: một tuần, một tháng, một năm hay cả cuộc đời con người. Những con người ở tầng lớp trên – tầng lớp thống trị – tranh giành nhau quyền lợi rồi xung đột. Họ không chỉ đau riêng mình mà con lây nỗi đau, sự mất mát, niềm thương tiếc vô hạn cho những đồng bào của họ, cho cả dân tộc họ.
Tại sao không phải là thỏa thuận hòa bình, tại sao không phải là tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng bình quyền? Bởi trên đời vẫn còn những mặt người chấp nhận hy sinh tính mạng kẻ khác, vứt số mệnh họ vào cái hố sâu tham lam không đáy của chính bản thân.
Đánh giá phim Mộ Đom Đóm là một tác phẩm cảm động, ý nghĩa. Phim đẩy người xem đến cao trào cảm xúc và sau khi kết thúc là nỗi buồn miên mang và những suy ngẫm.
Khoa Chính